Cổ đông chủ động, là số ít cá nhân coi đầu tư chứng khoán là nghề nghiệp. Họ am hiểu luật pháp, tình hình doanh nghiệp và không ngại chất vấn lãnh đạo doanh nghiệp những vấn đề chuyên môn.
Am hiểu luật để bảo vệ quyền lợi
Với nhiều năm kinh nghiệm trong ngành ngân hàng, ông Đặng Đình Hiệp (76 tuổi) chọn đầu tư dài hạn vào cổ phiếu ngân hàng, dựa trên ba nền tảng: sự giám sát chặt chẽ của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước (NHNN), tiềm lực tài chính ổn định của ngành, cùng chính sách chia cổ tức đều đặn bằng tiền mặt và cổ phiếu.
Dù tin tưởng vào triển vọng ngành, ông Hiệp vẫn giữ thái độ tỉnh táo và không ngần ngại chất vấn lãnh đạo các ngân hàng tại mỗi kỳ đại hội cổ đông. Những vấn đề ông thường xuyên đề cập gồm dòng tiền, thời hạn chi trả cổ tức và chất lượng tín dụng.
Tại Đại hội đồng cổ đông (ĐHĐCĐ) thường niên năm 2025 của SHB, ông Hiệp yêu cầu lãnh đạo ngân hàng làm rõ tiến độ, nguồn lực và những vướng mắc trong việc triển khai xây dựng trụ sở mới trên phố Lý Thường Kiệt, sau nhiều năm trì hoãn.
Về cổ tức, ông liên tục kiến nghị ngân hàng thực hiện đúng quy định tại Luật Doanh nghiệp 2020 – chi trả cổ tức trong vòng 6 tháng kể từ ngày kết thúc ĐHĐCĐ thường niên, thay vì để cổ đông phải chờ từ 9 đến 12 tháng, thậm chí lâu hơn. Đồng thời, ông nhấn mạnh cần cân đối hợp lý giữa cổ tức bằng tiền mặt và cổ phiếu, đặc biệt trong bối cảnh thị giá cổ phiếu đang thấp, để bảo đảm hiệu quả đầu tư cho cổ đông.
Tại cuộc họp cổ đông của ABBank, ông Hiệp tiếp tục góp ý về kế hoạch lợi nhuận, đề nghị ngân hàng đặt mục tiêu cao hơn nhằm sớm chia cổ tức “ra tấm, ra món” sau nhiều năm cổ đông gác lại quyền lợi để đồng hành cùng sự phát triển của nhà băng. Ông cũng bày tỏ sự quan ngại trước việc thành viên HĐQT Vũ Văn Tiền nộp rồi rút đơn từ nhiệm, cho rằng điều này có thể khiến cổ đông lo ngại về sự thiếu ổn định trong ban điều hành. Ông đề nghị ngân hàng tổ chức các buổi đối thoại định kỳ với nhà đầu tư để củng cố niềm tin vào chiến lược phát triển.
Những góp ý xác đáng từ ông Hiệp và một số cổ đông khác đã tạo áp lực tích cực, buộc lãnh đạo ABBank chỉ đạo các phòng ban nghiên cứu việc thiết lập kênh đối thoại, giải đáp trực tiếp thắc mắc của cổ đông tại các kỳ họp.
Không riêng ông Hiệp, ông Tô Hồng Sơn (Hà Nội) cũng là một cổ đông chủ động nổi bật khi thường xuyên gửi kiến nghị tới doanh nghiệp và cơ quan quản lý nếu phát hiện các quyết định có nguy cơ gây thiệt hại cho cổ đông nhỏ.
Năm 2013, sau khi cuộc họp ĐHĐCĐ bất thường của Viglacera Hạ Long thông qua phương án phát hành 7 triệu cổ phiếu cho ba cổ đông lớn – Tổng công ty Viglacera, SSI và SSIAM – với mức giá 10.000 đồng/cổ phiếu (thấp hơn đáng kể so với thị giá 17.000 đồng lúc bấy giờ), ông Sơn cùng một nhóm cổ đông đã gửi kiến nghị phản đối. Áp lực từ nhóm cổ đông này buộc doanh nghiệp phải hủy phương án phát hành riêng lẻ và thay bằng kế hoạch phát hành cho cổ đông hiện hữu, đảm bảo quyền lợi công bằng.
Khả năng tự vệ của các cổ đông nhỏ còn hạn chế
Không thể phủ nhận, sự xuất hiện của các nhà đầu tư chủ động đã góp phần nâng cao tính minh bạch, chất lượng quản trị, mức độ tôn trọng quyền lợi cổ đông tại một số doanh nghiệp niêm yết. Nhưng thực tế là số lượng nhà đầu tư có chuyên môn, sẵn sàng lên tiếng bảo vệ quyền lợi của cổ đông nhỏ lẻ, chiếm tỉ lệ rất nhỏ trong số gần 9,88 triệu nhà đầu tư trên TTCK Việt Nam tính tới cuối tháng 4/2025.
Trong hầu hết trường hợp, cổ đông nhỏ lẻ thường thường chịu tác động tiêu cực từ hành vi, quyết định của các thành viên khác trên thị trường. Chẳng hạn, tại Công ty cổ phần ANI, từng diễn ra tình huống nhóm cổ đông lớn tìm cách thâu tóm, nhằm đạt mục tiêu sở hữu hơn 90% cổ phần doanh nghiệp.
Điều này khiến ANI đối mặt mất tư cách là công ty đại chúng và bị Ủy ban Chứng khoán Nhà nước xem xét huỷ tư cách công ty đại chúng, huỷ niêm yết sau một năm, nếu không thay đổi. Còn hơn 500 cổ đông nhỏ lâm vào tình huống cổ phiếu mất thanh khoản và buộc phải bán ra ở mức giá thấp.
Trong bối cảnh trên, ông Bùi Văn Huy, Giám đốc Khối nghiên cứu đầu tư của FIDT, cho rằng cần cơ chế giám sát kỹ lưỡng để lãnh đạo doanh nghiệp, cổ đông lớn không chơi “game” với cổ đông nhỏ.
Một số “game” được vị này cảnh báo, gồm: chuyển dần nguồn lực, khách hàng, lợi nhuận… của doanh nghiệp mà họ hiện đang ít quyền sở hữu sang một doanh nghiệp mới thành lập; “đè giá” cổ phiếu nhằm gom lại qua các thủ thuật như công bố báo cáo kết quả kinh doanh xấu, phát hành cổ phiếu với giá rẻ cho cổ đông chiến lược/hiện hữu; cố tình báo cáo tài chính sai thời gian theo quy định, vi phạm các quy định niêm yết, để cổ phiếu bị hủy niêm yết.
Với những nhà đầu tư cá nhân, ông Huy khiến nghị nên nhận diện và thẳng thắn nói “không” với các doanh nghiệp có biểu hiện nêu trên để tự bảo vệ bản thân và phát triển thị trường.
Còn Luật sư Nguyễn Văn Lộc, Chủ tịch LP Group, gợi ý có thể áp dụng chuẩn OECD với các doanh nghiệp vốn hóa lớn hoặc có trên 1.000 cổ đông nhỏ. Chẳng hạn, thành lập “Hội đồng đại diện cổ đông thiểu số” tương tự cách Singapore triển khai để giám HĐQT.
Với cuộc họp ĐHĐCĐ, có thể minh bạch hóa về việc niêm yết công khai danh sách cổ đông tham dự và kết quả biểu quyết chi tiết. Hay việc thông qua các quyết định quan trọng (phát hành cổ phiếu, chuyển nhượng tài sản hay thay đổi nhân sự cấp cao) phải được sự đồng thuận của ít nhất 25% hoặc 50% cổ đông nhỏ tại cuộc họp, thay vì chỉ dựa vào tỷ lệ đa số theo quy định của pháp luật hiện hành.
Để thị trường có nhiều cổ đông chủ động trong dài hạn, các cơ quan quản lý như Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Tài chính, NHNN có thể xem xét, đưa các kiến thức tài chính, đầu tư vào chương trình giáo dục phổ thông, tương tự như cách Thái Lan và một số quốc gia phát triển đang áp dụng, với việc làm rõ những bài học cơ bản như: “tiền, cổ phiếu, cổ phần là gì?”, “giải pháp quản lý tài chính cá nhân”, trước khi hướng tới các mục tiêu dài hạn hơn.
Cổ phiếu của PNJ, TPB giảm trong khi cổ phiếu EIB lại tăng sau kết luận thanh tra hoạt động kinh doanh vàng của Ngân hàng Nhà nước.